Yahoo Hỏi & Đáp sẽ ngừng hoạt động vào ngày 4 tháng 5 năm 2021 (Giờ Miền Đông nước Mỹ) và từ nay, trang web Yahoo Hỏi & Đáp sẽ chỉ ở chế độ đọc. Các thuộc tính hoặc dịch vụ khác của Yahoo hay tài khoản Yahoo của bạn sẽ không có gì thay đổi. Bạn có thể tìm thêm thông tin về việc Yahoo Hỏi & Đáp ngừng hoạt động cũng như cách tải về dữ liệu của bạn trên trang trợ giúp này.

Giúp mình với!!!! Mình cần gấp!!!?

Vận dụng phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống cấu trúc để phân tích đặc trưng văn hóa kinh doanh Việt Nam và một số quốc gia Đông Nam Á?

1 Câu trả lời

Xếp hạng
  • Ẩn danh
    1 thập kỷ trước
    Câu trả lời yêu thích

    Từ thập kỷ 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã bắt đầu quan tâm đến vai trò của văn hoá trong kinh doanh. Có nhiều cách hiểu khác nhau về VHKD, chủ yếu tập trung hai xu hướng: xu hướng thứ nhất, coi chủ thể của VHKD chính là các doanh nghiệp, do đó VHKD là văn hoá doanh nghiệp (corporate culture) hay còn gọi là văn hoá tổ chức (organizational culture). Xu hướng thứ hai, đang ngày càng phổ biến hơn khi coi kinh doanh là hoạt động có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội, nên VHKD là một phạm trù ở tầm cỡ quốc gia, còn văn hoá doanh nghiệp chỉ là một thành phần trong VHKD. Qua xem xét, nghiên cứu các định nghĩa về VHKD của một số nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, trong khuôn khổ bài viết này, xin đưa ra định nghĩa: "VHKD là sự thể hiện phong cách kinh doanh của một dân tộc. Nó bao gồm các nhân tố rút ra từ văn hoá dân tộc, được các thành viên trong xã hội vận dụng vào hoạt động kinh doanh của mình và cả những giá trị, triết lý… mà các thành viên này tạo ra trong quá trình kinh doanh". Định nghĩa này tương đối bao quát và rõ ràng, theo đó, văn hoá tổ chức hay văn hoá doanh nghiệp sẽ chỉ được nghiên cứu với tư cách là một thành phần trong VHKD của một quốc gia.

    Trong suốt lịch sử phát triển của nước ta, hoạt động kinh tế phổ biến là sản xuất nông nghiệp tự cung, tự cấp. Trong thời kỳ phong kiến, tư tưởng "trọng nông ức thương" rất phổ biến, chính vì vậy mà rất ít người giỏi về kinh doanh. Lương Văn Can, một nhà cách mạng, đồng thời là một người thầy lỗi lạc trong giới doanh thương Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, khi phân tích nguyên nhân không phát triển của thương mại nói riêng và của kinh tế Việt Nam nói chung

    Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm hoạt động kinh doanh ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình kinh doanh mới ra đời như các xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, các hình thức kinh doanh quốc tế. Lợi nhuận thu được từ kinh doanh cũng tăng lên, góp phần khẳng định và nâng cao vai trò của kinh doanh nói chung và doanh nhân nói riêng trong xã hội Việt Nam.

    Tiến trình hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập cùng nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh được mở rộng, sôi động, đã tạo điều kiện cho các doanh nhân Việt Nam có cơ hội phát huy hết khả năng của mình, nâng cao trình độ kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường. Các doanh nhân Việt Nam được tiếp xúc với các kỹ năng hoàn toàn mới như marketing, xây dựng thương hiệu, đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ… làm phong phú thêm cho kho tàng kiến thức về kinh doanh của người Việt Nam.

    Các nhà nghiên cứu đều nhất trí rằng, văn hoá Việt Nam khá ôn hoà. Chúng ta không quá khắt khe về tôn giáo như người Trung Đông, không có kỷ luật để khép mình vào tập thể như người Nhật Bản, không quá lệ thuộc vào gia đình, dòng họ như người Italia, không tự hào về chủng tộc như người Hoa… Tính chất này giúp con người Việt Nam có tính khoan dung, mềm dẻo, dễ hoà đồng, nhưng cũng làm chúng ta dễ chao đảo, không có điểm tựa vững chắc về tinh thần. Số liệu điều tra cho thấy, phần lớn doanh nhân Việt Nam kinh doanh không bắt nguồn từ truyền thống gia đình, lại xuất thân từ những gia đình nghèo, không được đào tạo cơ bản, nên có nhiều hạn chế về kiến thức và trình độ. Thực tế này cộng với nền tảng tinh thần không ổn định đã làm nhiều doanh nhân có tham vọng không giới hạn trong việc làm giàu và tích luỹ tư bản. Đành rằng, trong kinh doanh, lợi nhuận là mục đích chính, nhưng việc mưu cầu lợi nhuận đến mức bất chấp đạo lý, luật pháp, quá táo tợn như vậy quả là một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng VHKD của Việt Nam

    Hình thức "doanh nhân văn hoá" đang tồn tại hiện nay ở phương Tây và phương Đông chủ yếu là ở tiểu giai đoạn, tức là giai đoạn mà nhận thức về nhu cầu xây dựng văn hóa doanh nghiệp xuất phát từ chính mục tiêu kiếm lời. Trong thời đại toàn cầu hóa, việc kinh doanh trở nên rất dễ và cũng rất khó. Dễ vì ai ai cũng có thể kinh doanh. ở Hàn Quốc có giai thoại là nếu ra đường mà kêu lên "Chào giám đốc Kim!” thì sẽ có trên một nửa số người đang đi ngoài đường quay đầu lại. Khó vì doanh nghiệp ra đời đã nhiều nhưng doanh nghiệp phá sản có khi còn nhiều hơn. Chính trong khó khăn này mà người ta nhận ra rằng những doanh nhân kinh doanh có đạo đức, có văn hóa trước đây, tuy có số lượng ít ỏi, nhưng phần đông số họ chính là những đại doanh nhân. Hiện nay, những doanh nghiệp đứng vững và phát triển tốt được đều là nhờ có tầm nhìn xa rộng và xây dựng được một truyền thống văn hóa riêng. Tóm lại, việc đi tìm và xây dựng văn hóa doanh nhân không phải do lòng tốt đối với xã hội, mà trước hết chính là vì sự sống còn của bản thân doanh nhân, doanh nghiệp.

    Tham khảo thêm tại

    http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2010/04...

Bạn vẫn có câu hỏi? Hãy hỏi ngay để nhận câu trả lời.